1. Hội nhập quốc tế về
giáo dục –xu thế tất yếu hiện nay
Hội nhập quốc tế là một xu thế khách
quan, diễn ra dưới nhiều hình thức và trên nhiều lĩnh vực khác nhau, tác động mạnh
mẽ đến các lĩnh vực đời sống của từng quốc gia. Thực tiễn cho thấy, không một
quốc gia nào có thể “đứng một mình” trên con đường phát triển. Ngày nay, hội nhập
quốc tế được xem như là phương tiện để các quốc gia phát triển chính mình và
góp phần vào sự phát triển chung của cộng đồng trong một “thế giới phẳng”. Đại
hội lần thứ XI của Đảng đã đề ra chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” nhằm khai thác tối đa các
nguồn lực bên ngoài để phục vụ phát triển nhanh, bền vững và xây dựng nền kinh
tế độc lập, tự chủ, coi đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm sắp tới.
“Thế giới
phẳng” ngày nay sẽ làm “phẳng hoá” các mặt trong đó có giáo dục, tạo ra một sân
chơi giáo dục “bằng phẳng”, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh. Lịch sử toàn cầu hóa
về giáo dục đã cho thấy giai đoạn đầu tiên là hợp tác quốc tế về giáo dục đã
diễn ra trong thập niên cuối của thế kỷ XX. Sang đến thập niên đầu của thế kỷ
XXI, giáo dục đã chuyển sang giai đoạn quốc tế hóa, với sự phát triển mới, cao
hơn và phức tạp hơn. Quốc tế hóa giáo dục sẽ làm cho nền giáo dục yếu kém mất lợi
thế cạnh tranh. Để quan điểm “giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân
trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát
triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam” của Đảng trở
thành hiện thực trong thời đại quốc tế hóa, Nghị quyết
số 29-NQ/TW Hội nghị Trung ương 8 khóa XI đã xem hội nhập quốc tế là một trong 09 nhiệm vụ, giải pháp để đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo. Trong tiến trình hội nhập quốc tế ngày càng
sâu và rộng, giáo dục Đại học Việt Nam tất yếu sẽ chịu ảnh hưởng ngày càng tăng
của giáo dục quốc tế. Làn sóng toàn cầu hoá mang lại cho giáo dục đại học Việt
Nam nhiều cơ hội nhưng cũng không ít những khó khăn và thách thức
như sau:
Về cơ hội: Thứ nhất, sau gần 30 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã làm thay đổi diện mạo của đất nước, đưa Việt Nam từ một nước
nghèo kém phát triển trở thành nước có thu nhập trung bình. Thứ hai, Việt Nam đang chủ động tham gia
vào quá trình hội nhập quốc tế với với môi trường chính trị ổn định và mức sống
của các tầng lớp nhân dân ngày càng được cải thiện. Thứ ba, khoa học công nghệ tiếp tục phát triển mạnh mẽ, làm nền tảng
cho sự phát triển kinh tế tri thức, làm thay đổi nội dung, phương pháp giáo dục
trong các trường đại học, đồng thời đòi hỏi giáo dục phải cung cấp được nguồn
nhân lực có trình độ cao cho sự phát triển kinh tế, xã hội.
Về khó khăn và thách thức: Thứ nhất, tư duy hội nhập ở
chính những con người đang làm giáo dục còn chậm thay đổi so với tốc độ toàn cầu
hóa hiện nay, đặc biệt là ý thức “ngại thay đổi, ngại thêm việc”. Thứ hai, chúng ta có định hướng về hội
nhập quốc tế với mục tiêu rõ ràng, nhưng chưa có lộ trình chi tiết mang tính
ràng buộc. Thứ ba, đội ngũ quản lý
giáo dục và đội ngũ giảng viên sử dụng thành thạo một ngoại ngữ
chưa nhiều. Thứ tư, sự phát
triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ có thể làm cho khoảng
cách kinh tế và tri thức giữa Việt Nam và các nước ngày càng lớn hơn, nước ta
có nguy cơ bị tụt hậu xa hơn.
Là một trung tâm đào tạo có uy tín, Trường Đại học Vinh đã có
nhiều đóng góp cho sự phát triển kinh tế, xã hội trong suốt 56 năm qua. Tầm
nhìn đến năm 2020 là xây dựng Trường Đại học Vinh trở thành trường đại học
trọng điểm quốc gia, có một số ngành học đạt tiêu chuẩn quốc tế, là thành viên của Hiệp hội các trường đại học Đông Nam Á
(AUN). Để hiện thực hóa được
tầm nhìn, chúng ta cần thực hiện đồng bộ trên nhiều mặt, nhiều nội dung, trong
đó hợp tác quốc tế là một mặt quan trọng, cần có sự đột phá.
Trong
khuôn khổ tham luận này, chúng tôi trình bày một số nội dung cốt lõi về hợp tác
quốc tế gần đây ở khoa Vật lý & Công nghệ.
2. Một số nội dung về hợp tác quốc tế ở khoa Vật lý và Công nghệ
2.1. Đào tạo và bồi
dưỡng nguồn lực cán bộ
Nguồn lực cán bộ luôn
được Đảng ủy khoa xem là yếu tố quan trọng nhất để đảm bảo chất lượng đào tạo
và NCKH. Vì vậy, Đảng ủy khoa đã đề ra phương châm: đào tạo và bồi dưỡng cán
bộ phải đồng bộ cả về năng lực chuyên môn, trình độ ngoại ngữ, khả năng nắm bắt
tốt các xu thế vận động của giáo dục thế giới và khả năng tạo lập được các kết
nối quốc tế. Trong công tác bồi dưỡng cán bộ, khoa đã chủ động xây dựng lộ
trình đào tạo và bồi dưỡng cán bộ ở trong và ngoài nước. Đặc biệt, để có nhiều
cơ hội cho cán bộ, ngoài việc tận dụng học bổng từ ngân sách nhà nước, khoa
đã chủ động đàm phán xây dựng chương trình hợp tác quốc tế song phương, nghị
định định thư hợp tác quốc tế và chương trình Erasmus Plus để phía đối
tác quốc tế hỗ trợ đào tạo cán bộ, sinh viên và chuyển giao công nghệ
tiên tiến. Kết quả, trong 5 năm qua, đã có 25 lượt cán bộ và sinh viên đã
được cử đi học tập và nghiên cứu tại các quốc gia như Hoa Kì, Ba Lan, CHLB Đức,
Belarus, Hàn Quốc, Nga và Pháp; đã đón 38 lượt các nhà khoa học quốc tế đến giảng
dạy, trình bày các xemina và hội thảo khoa học; đã công bố 138 bài báo trên các
tạp chí và Hội thảo quốc tế có uy tín.
Đến nay, khoa đã có đội ngũ cán bộ được đào tạo bài bản, có trình độ
ngoại ngữ và năng lực cần thiết để tham gia hoạt động hợp tác quốc tế về Quang
học và khoa học giáo dục. Trong đó, một số cán bộ đã được mời chủ trì các
phiên của hội thảo khoa học quốc tế và được mời phản biện cho một số tạp chí uy
tín trong danh mục ISI.
Hội thảo quốc tế về
nguyên tử lạnh và phổ học laser được tổ chức tại Trường Đại học Vinh năm 2009.
Hội thảo có sự tham dự của hơn 50 nhà khoa học quốc tế có uy tín.
2.2. Đổi mới
chương trình và nâng cao chất lượng đào tạo
Cùng
với nguồn lực cán bộ, chương trình đào tạo là nội dung cốt lõi đối với sự phát
triển của một trường đại học, là tiêu chuẩn quan trọng để được công nhận trong khu
vực và quốc tế. Dưới sự định hướng chung của Đảng ủy và Ban giám hiệu Nhà trường,
Đảng ủy khoa đã định hướng đổi mới chương trình đào tạo theo phương châm: hiện đại, linh hoạt, hướng tới chuẩn mực quốc
tế, đáp ứng nhu cầu phát triển của kinh tế xã hội và thiết thực với người học.
Để thực hiện điều này, ngoài việc khảo sát thực tế thì khoa đã chủ động kết nối
qua các chương trình hợp tác quốc tế với Ba Lan và Hoa Kì để mời các chuyên gia
sang tư vấn trong xây dựng chương trình và tổ chức hoạt động dạy học. Kết quả,
đối với chương trình đào tạo cử nhân Sư phạm Vật lý từ khóa đã được xây dựng
theo hướng phát triển năng lực người học, trong đó có các học phần chủ chốt được
giảng dạy bằng song ngữ Việt-Anh. Đây là tiền đề quan trọng để tiếp tục đổi
mới chương trình đào tạo theo các tiêu chí của AUN QA.
Đối
với đào tạo SĐH, chương trình được điều chỉnh đồng thời theo hai hướng: tăng tính ứng dụng để phù hợp với nhu cầu
thực tiễn người học và cập nhật có chọn lọc
những kiến thức mới (liên quan đến các giải thưởng Nobel trong vòng 15 năm trở
lại đây). Để bước đầu vận hành chương trình này một cách có hiệu quả, khoa đã
chủ động mời các nhà khoa học quốc tế tới trình bày các bài giảng và xemina học
thuật cho cán bộ và học viên. Đến nay, các kiến thức mới này đều được các cán bộ
của khoa lĩnh hội và đảm nhận theo kế hoạch đào tạo của Nhà trường. Do tiếp cận
được những nghiên cứu mới nên nhiều NCS của khoa đã có các kết quả nghiên cứu
được công bố trên các tạp chí quốc tế bằng tiếng Anh. Phát huy những thành công
đó, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ khoa (Nhiệm kỳ 2015-2020) đã đề ra biện pháp để tiếp
tục nâng cao chất lượng đào tạo là: từ năm 2015, các
luận án TS của cả hai chuyên ngành đào tạo SĐH phải có kết quả được công bố
trên tạp chí quốc tế bằng tiếng Anh, trong đó chuyên ngành Quang học phải có
công bố trên tạp chí thuộc danh mục ISI.
PGS.TS. Đinh Xuân Khoa (Phó hiệu trưởng)
và GS Kolwas (Chủ tịch Hội Vật lý Châu Âu) chụp ảnh lưu niệm trong chuyến thăm
và làm việc tại Ba Lan năm 2009 về chương trình hợp tác trong NCKH.
2.3.
Xây dựng các hướng nghiên cứu
Với phương châm lấy chất lượng nghiên cứu khoa học làm đòn bẩy để
nâng cao chất lượng đào tạo, trong các thời kỳ phát triển, tập thể cán bộ của
khoa đã không ngừng nỗ lực học tập để nắm bắt những tiến bộ của Vật lý học. Ở
đây, các hướng nghiên nghiên cứu luôn được khoa định hướng theo một phương châm
nhất quán: không dàn trải mà chỉ ưu tiên
các hướng nghiên cứu phù hợp nguồn lực của Nhà trường và phục vụ thiết thực cho
nâng cao chất lượng đào tạo tiến tới những chuẩn mực quốc tế.
PGS.TS.
Nguyễn Huy Bằng (Trưởng khoa) trình bày báo cáo tại phiên toàn thể của “Hội thảo quốc tế lần thứ IV về khoa học tự
nhiên cho các nhà khoa học trẻ, học
viên cao học và nghiên cứu sinh của các nước ASEAN” được tổ chức tại Trường đại học Công nghệ
King Mongkut, Bangkok, Thái Lan, tháng 12/2015.
Đến nay, khoa có hai nhóm nghiên cứu về Quang học và LL&PPDHBM Vật
lý đang triển khai các hướng nghiên cứu mới được các nhà khoa học quan tâm. Nhiều đề tài
cấp Bộ và Nghị định thư hợp tác quốc tế đã được xây dựng để giải quyết các vấn
đề lớn về KHCN, làm tăng vị thế của khoa và Nhà trường ra cộng đồng quốc tế. Đặc
biệt, dưới sự chủ
trì của GS.TS Đinh Xuân Khoa, chương trình “Hợp
tác quốc tế song phương về ứng dụng của các kỹ thuật phổ laser” giai đoạn
2011-2020 được xây dựng và đang góp phần thúc đẩy các hướng nghiên cứu chuyên
sâu trong lĩnh vực Quang học, xây dựng Phòng thí nghiệm Vật lí tiến tiến vào loại
tiên tiến trong khu vực Đông Nam Á. Nhờ đó, nhóm Quang học hiện nay đã triển
khai các nghiên cứu một cách đồng bộ cả lý thuyết và thực nghiệm với độ chính
xác rất cao.
Kìm quang học
(Optical tweetzers) vừa được xây dựng tại phòng thí nghiệm Vật lý tiên tiến thông
qua Nghị định thư hợp tác quốc tế với Hoa Kì (2012-2014).
Đầu năm 2014, đoàn công tác dưới sự phối hợp của Bộ KH&CN, Bộ
GD&ĐT và Viện Hàn lâm Khoa học Công nghệ Việt Nam do Viện sỹ Nguyễn Văn Hiệu
dẫn đầu đã đến khảo sát các nguồn lực của Nhà trường. Đoàn đã đánh giá rất
cao về năng lực tổ chức hoạt động NCKH, nguồn lực cán bộ và chất lượng đào
tạo tiến sỹ ở chuyên ngành Quang học trong thời gian gần đây. Từ đó, đoàn
công tác đã đề nghị cho mở một
chi nhánh của Trung tâm nghiên cứu xuất sắc về Vật lý của Việt Nam đặt tại Trường
Đại học Vinh với tên gọi “Trung tâm
nghiên cứu xuất sắc về Quang học lượng tử” theo “Chương trình phát triển Vật lý đến
2020” vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào ngày 24/3/2015. Mục
tiêu của thành lập Trung tâm nghiên cứu xuất sắc là đáp ứng nhu cầu nghiên cứu
khoa học, đào tạo trình độ tiến sỹ và thực tập sau tiến sỹ về Quang học ở trong
cả nước và khu vực ASEAN, tiến tới cho cả cộng đồng quốc tế dưới sự bảo trợ của
UNESCO.